Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam kiểm tra thực hiện NQ 19 tại Bộ KH&CN

Tác giả: Minh Hà

saosaosaosaosao
21/09/2016 14:22

Sáng nay (21/9), Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam đã tới Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) để kiểm tra tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết số 19-2016/NQ-CP về cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong lĩnh vực Tiêu chuẩn và Sở hữu trí tuệ tại Bộ KH&CN tại 2 đơn vị là Cục sở hữu trí tuệ và Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (TCĐLCL).

Pho thu tuong vu duc dam lam viec tai bo khcn 5
Trước khi vào buổi làm việc của Đoàn kiểm tra, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã tới thăm Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng 1 thuộc Tổng cục TCĐLCL.

Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết 19-2016/NQ-CP trong lĩnh vực hoạt động quản lý về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng sản phẩm và hàng hóa, ông Trần Văn Vinh, Tổng Cục trưởng, Tổng Cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng cho biết, Tổng Cục đã và đang tập trung vào việc khắc phục các vướng mắc, khó khăn cho doanh nghiệp đồng thời tăng cường chống gian lận thương mại; bảo vệ người tiêu dùng và đảm bảo phù hợp với các quy định của hiệp định hay điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết. Triển khai đồng bộ nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra chuyên ngành trong thời gian qua.

Bên cạnh đó, Tổng cục đã phối hợp với Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch số 110/TTLT-BTC-BKHCN ngày 30/6/2016 hướng dẫn phối hợp kiểm tra chất lượng và thông quan hàng hóa nhập khẩu, góp phần giảm bớt thời gian đọng hàng ở cửa khẩu chờ đợi kết quả đánh giá sự phù hợp và rút ngắn được thời gian trao đổi và cung cấp thông tin về kết quả kiểm tra, đánh giá sự phù hợp (các cơ quan kiểm tra, đánh giá sự phù hợp, hải quan chấp nhận trao đổi và xử lý thông tin trên file ảnh qua  email, qua bản fax,...). Như vậy, có thể thấy rằng nếu các lô hàng khi nhập khẩu vào đã có chứng chỉ chất lượng (chứng chỉ này được cấp bởi tổ chức được thừa nhận từ nước ngoài được chỉ định hoặc tổ chức được chỉ định trong nước thực hiện đánh giá tại nguồn sản xuất ở nước xuất khẩu) thì thời gian kiểm tra nhà nước về chất lượng đối với hàng hóa nhập khẩu thuộc trách nhiệm của Bộ KH&CN không quá 1,5 ngày, đáp ứng tốt yêu cầu của Nghị quyết 19 - 2016/NQ-CP.

Tuy nhiên, ông Trần Văn Vinh cũng cho biết, để tháo gỡ những vướng mắc, bất cập trong quy định về việc vừa phải thực hiện chứng nhận hợp quy, vừa phải kiểm tra từng lô hàng nhập khẩu nói riêng cũng như đáp ứng mục tiêu nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra chuyên ngành... cần giải quyết nút thắt quan trọng nhất ở khâu triển khai hoạt động đánh giá sự phù hợp, trong đó, các Bộ, ngành cần đẩy mạnh việc triển khai hình thức đánh giá cơ sở sản xuất tại nguồn nước xuất khẩu; bên cạnh đó cần đẩy mạnh việc thực hiện các cơ chế thừa nhận lẫn nhau giữa các cơ quan quản lý của Việt Nam và nước xuất khẩu (cơ chế G to G); triển khai nguyên tắc cho phép áp dụng các biện pháp kiểm tra, đánh giá sự phù hợp theo các chế độ bình thường, chế độ chặt, chế độ lỏng căn cứ vào mức độ rủi ro của từng loại hàng hoá cũng như kết quả tuân thủ yêu cầu chất lượng, an toàn của doanh nghiệp nhập khẩu.

Ngoài ra, với một số sản phẩm hàng hoá nhóm 2 không quá rủi ro, theo nguyên tắc của Luật chất lượng sản phẩm hàng hóa, có thể chỉ cần áp dụng cơ chế công bố hợp quy và tăng cường hậu kiểm…

Thực hiện công việc này, Bộ KH&CN đã kiến nghị Chính phủ giao Bộ KH&CN làm đầu mối, phối hợp với các Bộ, ngành tiếp tục rà soát lại sản phẩm, hàng hoá để loại khỏi Danh mục sản phẩm, hàng hoá nhóm 2 đối với các sản phẩm không thực sự có nguy cơ cao về an toàn; giao Bộ KH&CN là đầu mối quản lý các tổ chức đánh giá sự phù hợp nói chung ngoài một số lĩnh vực đánh giá sự phù hợp chuyên sâu để thực sự đảm bảo tính khách quan trong việc thúc đẩy cơ chế xã hội hoá hoạt động đánh giá sự phù hợp, thừa nhận các tổ chức đánh giá sự phù hợp nước ngoài mà hiện nay các Bộ, ngành còn chưa thực hiện...

Tại buổi làm việc, ông Trần Văn Vinh cũng báo cáo Phó thủ tướng về những nhiệm vụ mà Tổng cục đang triển song song bao gồm: Đề án nâng cấp Viện Năng suất Việt Nam thành Viện Năng suất quốc gia Việt Nam; mô hình triển khai hoạt động năng suất chất lượng của Viện Năng suất Việt Nam trực thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng; mô hình Cơ quan thực hiện chức năng nghiên cứu chính sách năng suất quốc gia trên thế giới...

Về lĩnh vực sở hữu trí tuệ ông Lê Ngọc Lâm, Cục phó Cục Sở hữu trí tuệ (SHTT) cũng báo cáo đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết 19-2016/NQ-CP một cách cụ thể, chi tiết.

Ông Lâm cho biết, hiện nay hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ đã tương đối đầy đủ và đồng bộ làm nền tảng cho các hoạt động SHTT của cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác, qua đó đã đảm bảo việc tiếp nhận và cơ bản xử lý một khối lượng lớn đơn sở hữu công nghiệp: tiếp nhận đến gần 100.000 đơn các loại và xử lý gần 80.000 đơn các loại mỗi năm; Tạo nên sự chuyển biến về chất trong nhận thức của doanh nghiệp và xã hội về tài sản trí tuệ, giúp cho tài sản trí tuệ trở thành một loại tài sản vô hình có giá trị lớn của doanh nghiệp để thương mại hóa và thu được nhiều kết quả đáng ghi nhận trong kinh doanh; Đảm bảo sự thành công của quá trình đàm phán, ký kết và thực hiện các hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó các cam kết về SHTT là yếu tố quan trọng đối với thành công của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam; Hỗ trợ hiệu quả doanh nghiệp trong quản lý, khai thác, sử dụng và phát triển tài sản trí tuệ của mình thông qua Chương trình phát triển tài sản trí tuệ và các hoạt động phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương, hiệp hội doanh nghiệp và chính các doanh nghiệp.

Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, Cục SHTT cũng gặp một số khó khăn trong xây dựng cơ chế, chính sách và pháp luật sở hữu trí tuệ, tuy đã rất nỗ lực song vẫn chưa theo kịp nhu cầu của xã hội. Lượng đơn nộp vào Cục SHTT liên tục gia tăng, bản chất đơn ngày càng phức tạp, thời gian tra cứu để thẩm định đơn ngày càng lâu, trong khi đó các điều kiện để phục vụ công tác thẩm định đơn (quy trình, thủ tục, nguồn ngân lực, cơ sở hạ tầng thông tin, trang thiết bị, cơ sở dữ liệu, v.v.,) chưa được cải thiện trong một thời gian dài đã dẫn đến việc tồn đọng một lượng đơn không nhỏ.

Nguyên nhân chính của tình trạng trên là do quy trình, thủ tục thẩm định đơn chưa được hoàn thiện trong nhiều năm qua, chậm cải cách thủ tục hành chính và đơn giản hóa quy trình trong xác lập quyền sở hữu công nghiệp; một số quy định chưa được chi tiết, rõ ràng dẫn đến việc chậm trễ, ách tắc trong công tác thẩm định đơn, ví dụ các đơn sáng chế dược phẩm với vấn đề sáng chế dạng sử dụng; Cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng công nghệ thông tin như hệ thống quản trị đơn, cơ sở dữ liệu, công cụ tra cứu, trang thiết bị, v.v. để phục vụ công tác thẩm định đơn SHCN còn yếu và thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu công việc; thiếu nhân lực để xử lý đơn; Chất lượng của các hệ thống bổ trợ như hệ thống đại diện sở hữu công nghiệp không cao, chất lượng đơn do các đại diện sở hữu công nghiệp chuẩn bị chưa thật sự đạt chuẩn.

Để tháo gỡ tình trạng trên Cục SHTT cũng đề xuất các giải pháp thực hiện các nhiệm vụ trong Nghị quyết 19 và Quyết định số 1348/QĐ-BKHCN cụ thể: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ và thực thi quyền SHTT, cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực SHTT, tăng cường các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp trong bảo hộ và thực thi quyền SHTT, rà soát, đề xuất sửa đổi các quy định pháp luật về SHTTđể cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, thông thoáng cho nhà đầu tư; nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật SHTT(năm 2018) đáp ứng các cam kết của Việt Nam khi tham gia các FTA và Hiệp định TPP, tăng cường hỗ trợ, xác lập, quản lý và phát triển tài sản trí tuệ cho các tổ chức, cá nhân./.

Nhằm mục tiêu tiếp tục phấn đấu cải thiện về điểm số và vị trí xếp hạng về môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, ngày 28/4/2016, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã ký ban hành Nghị quyết số 19-2016/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016-2017, định hướng đến năm 2020. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ đã được nêu tên và giao những nhiệm vụ rất cụ thể trong Nghị quyết lần này. Đây là điểm khác biệt lớn nhất trong Nghị quyết 19 lần này so với hai Nghị quyết 19 của các năm 2014 và 2015.

Theo đó, phấn đấu các chỉ tiêu về môi trường kinh doanh đạt tối thiểu bằng trung bình của nhóm nước ASEAN 4; đến năm 2017 đạt mức trung bình của nhóm nước ASEAN 4 trên một số chỉ tiêu về năng lực cạnh tranh thuộc nhóm chỉ số nâng cao hiệu quả (theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới); mục tiêu đến năm 2020, môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh đạt mức trung bình của các nước ASEAN 3 trên một số chỉ tiêu thông lệ quốc tế.

Trên cơ sở các mục tiêu đã đề ra, Nghị quyết số 19/2016 đã chỉ rõ nhiệm vụ cụ thể đối với từng Bộ, ngành. Trong đó, Bộ Khoa học và Công nghệ có 5 nhiệm vụ cụ thể đúng chức năng, nhiệm vụ của mình.

Ý kiến của bạn

Bình luận