Vì sao ôtô nhập từ Ấn Độ 84 triệu bán 400 triệu tại Việt Nam?

Bạn đọc 23/02/2017 15:33

Sau hàng loạt thuế chồng thuế cộng các chi phí khác, mức giá xe có thể tăng lên nhiều lần khi bán tại Việt Nam.

xedoisong_vn_hyundai_i10_2017_ihkn

Vì bài toán kinh tế, hãng xe phải đặt giá tối ưu nhất, dù mức giá này có thể khiến khách hàng so sánh với thị trường nước ngoài.

Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong tháng 1/2017 Việt Nam nhập khẩu khoảng 1.000 ôtô từ Ấn Độ với giá xe (chưa tính các loại thuế, phí) trung bình đạt 3.700 USD, tức xấp xỉ 84 triệu đồng, mỗi chiếc. Đây là giá trung bình rẻ nhất trong số những quốc gia mà Việt Nam đang nhập khẩu ôtô.

Năm 2016, Ấn Độ là thị trường nhập khẩu xe nhiều thứ hai vào Việt Nam với 22.000 chiếc, với giá trung bình mỗi xe khoảng 5.400 USD, tương đương 123,5 triệu đồng theo tỷ giá thời điểm đó. Giá nhập khẩu bình quân trong tháng 1/2017 giảm gần 32% so với trung bình năm 2016.

Xe nhập từ Ấn Độ về Việt Nam chủ yếu là xe hạng nhỏ cùng một vài mẫu xe thương mại giá rẻ. Mức giá bán ra tại thị trường Việt Nam có thể tăng cao khoảng 3 lần so với giá nhập khẩu, bởi lẽ để ra được giá bán, ngoài giá nhập khẩu hãng còn phải chịu nhiều loại thuế và phí khác.

Tháng 1, lượng xe nhập về chủ yếu bản tiêu chuẩn (thấp nhất) nên tổng giá trị xe nhập từ Ấn Độ giảm so với trung bình năm 2016 vốn có cả bản cao cấp.

Sau khi tính giá nhập khẩu, các hãng xe cộng thêm thuế nhập khẩu, thuế TTĐB, VAT và các loại chi phí bán hàng, marketing, lợi nhuận... để ra giá bán cuối cùng.

Mức giá xe nhập Ấn Độ tại cảng là giá theo điều kiện thương mại CIF (Cost, Insurance, Freight), bao gồm giá xuất xưởng tại Ấn Độ (Cost), phí bảo hiểm hàng hoá (Insurance) và cước phí vận chuyển từ Ấn Độ về Việt Nam (Freight). Giá xuất xưởng thấp hơn nhiều so với giá bán sản phẩm tương đương tại thị trường Ấn Độ vì xe bán tại nước này cũng phải chịu các thuế, phí về xe và bán hàng như tại Việt Nam.

Từ giá CIF, hãng nhập khẩu chịu thêm thuế nhập khẩu 70%, thuế TTĐB theo từng phân khúc, ví dụ i10 dưới 1,5 lít chịu thuế 40% và VAT 10%. Theo công thức thuế chồng thuế, nếu mức giá nhập khẩu là A, mức giá sau các loại thuế sẽ là A x (1+70%) x (1+40%) x (1+10%) = 2,6 A. Như vậy, nếu giá nhập khẩu là 84 triệu, chỉ cộng thêm thuế giá đã là 218 triệu.

Sau đó, hãng nhập khẩu còn phải cộng chi phí ở khâu phân phối bao gồm chi phí vận chuyển nội địa, kho bãi, thêm trang bị cho xe, chi phí tài chính, duy trì hệ thống bộ máy đơn vị nhập khẩu, marketing, bảo hành, dự phòng rủi ro, thuế thu nhập doanh nghiệp cùng lợi nhuận. Thậm chí từ 1/7, các loại chi phí này cũng phải cõng thêm thuế TTĐB theo cách tính mới.

Cuối cùng, tại các đại lý, giá xe một lần nữa bị đội chi phí tương tự những gì hãng xe phải chịu trong hệ thống phân phối ở trên. Tổng thể các loại chi phí này khiến giá xe có thể tăng 4-5 lần so với giá nhập khẩu. Ví dụ Grand i10 bản 1.0 Base có giá 359 triệu, gấp 4 lần giá nhập khẩu trung bình 84 triệu. 

"Chính sách chung của Việt Nam là đánh thuế, phí cao để giới hạn ôtô, vì thế cố gắng hết cách chúng tôi cũng không thể giảm giá sâu hơn nếu không có thay đổi từ cơ chế", đại diện một hãng có nhiều mẫu xe nhập khẩu cho biết.

Thị trường ôtô Việt Nam tăng trưởng nhanh trong hai năm qua, xe nhập khẩu dần có dấu hiệu lấn át xe lắp ráp về cả chủng loại và số lượng. Tuy vậy ôtô tại Việt Nam vẫn bị coi là mặt hàng xa xỉ, chịu nhiều loại thuế phí để hạn chế mua sắm, khiến mức giá cao hơn nhiều thu nhập bình quân đầu người, đồng thời lại đắt gấp 3-4 lần giá xe ở các nước phát triển Âu-Mỹ.

Trong 2017 và 2018, một số dấu hiệu khả quan như thuế nhập khẩu từ ASEAN sắp về 0%, thuế TTĐB giảm theo lộ trình... có thể giúp xe nhập khẩu giảm giá tương đối. Tuy nhiên theo nhiều chuyên gia, mức giá bán nếu có thay đổi sẽ không quá khác biệt vì có thể phải chịu tác động từ nhiều chính sách khác.

Ý kiến của bạn

Bình luận